Trang chủ | Giới thiệu | Dân tộc Hà Nhì | Học tiếng Hà Nhì | Sơ đồ trang

Nguồn gốc Dân tộc Hà Nhì - Nhìn lại hành trình di cư lịch sử

Không có nhận xét nào
Người Hà Nhì
Dân tộc Hà Nhì có lịch sử lâu đời
 ảnh: internet | 
Theo nhiều khi chép lịch sử cổ đại ở Trung Quốc có thể thấy dân tộc Hà Nhì hay (Hani) có lịch sử lâu đời và tương đồng với dân tộc Khương (Qiang) cổ đại với dân tộc Di (Yi) và dân tộc La Hủ (Lahu). Người Khương cổ đại là những người du mục trên cao nguyên Thanh Hải - Tây Tạng. Từ năm 384 trước Công nguyên đến năm 362 trước Công nguyên, thời gian này quyền lực của nhà Tần đã mở rộng nhanh chóng và thực hiện các hoạt động quy mô lớn để chinh phục các bộ tộc lân cận. Những người du mục Khương cổ đại sống trên cao nguyên Thanh Hải - Tây Tạng đã bị tấn công, phân tán và di cư, trong đó một nhóm người đã tách ra từ người Khương và được gọi với cái tên Khứa Di (Heyi). Theo ghi chép lịch sử bộ tộc Khứa Di hoạt động ở phía nam sông Dadu (một nhánh phụ lưu sông Dương Tử ngày nay) vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên được xem là tổ tiên của bộ tộc Hà Nhì ngày nay và là một nhánh của người Khương cổ đại di cư xuống phía nam. Từ thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên đến đầu thời nhà Đường vào thế kỷ thứ 8, một số tổ tiên người Hà Nhì đã di cư về phía tây đến khu vực Sông Lan Thương 
(Lancangjiang) hay sông Mekong  ở phía tây sông Hồng Hà (Yuanjiang). Trong văn học đời Đường cũng đề cập đến tổ tiên của bộ tộc Hà Nhì và gọi họ là Hòa Man (Heman). Vào giữa thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên, các thủ lĩnh của Hòa Man đã cống nạp cho nhà Đường và được Nhà Đường đưa tên của các thủ lĩnh của Hòa Man vào thư hoàng gia gửi các thủ lĩnh của các dân tộc khác nhau ở Vân Nam, và thừa nhận rằng tất cả họ đều đến từ thời nhà Đường. Cũng trong giai đoạn này ở khu vực phía tây Nam khu vực hồ Nhĩ Hải có nhiều cư dân làm nông nghiệp hình thành các bộ lạc như một vương quốc riêng biệt gọi là Chiếu, theo ghi chép có đến Lục Chiếu là: Mông Huề Chiếu, Việt Tích Chiếu, Lãng Khung Chiếu, Đằng Đạm Chiếu, Thi Lãng Chiếu, Mông Xá Chiếu. Mông Xá Chiếu ở về phía nam nên đôi khi gọi là Nam Chiếu.

Việt Nam sử lược (VNSL) của Trần Trọng Kim có chép:

" Trong khoảng năm Khai Nguyên (713-742) đời Huyền Tông nhà Đường, Nam Chiếu là Bì La Cáp cường thịnh lên, mà 5 chiếu kia suy hèn đi. Bì La Cáp mới đút lót cho quan tiết độ sứ đạo Kiếm Nam là Vương Dục để xin hợp cả sáu chiếu lại làm một. Triều đình nhà Đường thuận cho, và đặt tên là Quy Nghĩa. Từ đó Nam Chiếu càng ngày càng thịnh lên, đem quân đi đánh Thổ Phồn... Bấy giờ Nam Chiếu đã mạnh lắm, bèn xưng đế và đặt quốc hiệu là Đại Mông quốc rồi lại đổi là Đại Lễ... "

Nam Chiếu
Bản đồ mô phỏng các quốc gia thời cổ đại
ảnh: internet
Vương quốc Nam Chiếu duy trì một mối quan hệ mật thiết với nhà Đường, và chính quyền Nam Chiếu là của hai tộc người Bạch và Di. Lập kinh đô từ năm 738 ở Thái Hòa (ngày nay là làng Thái Hòa, cách thành cổ Đại Lý vài dặm về phía nam). Nằm ở trung tâm của thung lũng Nhĩ Hải, khu vực này giúp cho người ta dễ dàng chống lại các cuộc tấn công và nó nằm giữa một khu vực đất đai nông nghiệp màu mỡ. Nam Chiếu quốc khi ấy là một hỗn hợp, tương tự hợp chủng quốc, có hơn mười mấy dân tộc quy tụ, song nhiều nhất phải kể đến Bạch Man (白蛮; tổ tiên của người Bạch) và Ô Man (乌蛮; tổ tiên của người Di). Ngoài ra còn có Hòa Man (和蛮; nay là người Hà Nhì), Thuận Man (顺蛮; nay là người Lật Túc), Ma Chút (磨些; nay là người Naxi), Tầm Truyện (寻传; nay là người A Xương), Lỏa Hình (裸形; nay là người Kachin), Kim Xỉ (金齿; nay là người Thái), Phác Tử Man (朴子蛮; nay là người Palaung, người Bố-lãng, người Va),... Tên các vua Nam Chiếu đặt theo cách dùng âm tiết cuối của tên cha để bắt đầu tên con, phổ biến trong người Lolo và các nhóm Tạng-Miến khác. Nam Chiếu hùng mạnh một thời gian đã bành trướng xâm chiếm nhiều vùng lãnh thổ lân cận trong đó có cả khu vực tây Bắc bộ của Việt Nam (An Nam) và toàn bộ tỉnh Vân Nam ngày nay, đến cuối thế kỷ 8 Nam Chiếu bắt đầu suy yếu dưới sức ép rất lớn của nhà Đường (Trung Hoa) và sau hàng thập kỷ chiến tranh liên tục Nam Chiếu sụp đổ vào năm 902, cư dân chạy loạn để trốn chiến tranh quốc gia trong đó có cả bộ tộc người Hà Nhì đã ly tán về nhiều nơi.


尼阿培聪坡坡
sử thi 尼阿培聪坡坡
(Hani Ape Cong Po Po)
ảnh: internet
Lịch sử cổ đại của dân tộc Hà Nhì thực sự là một lịch sử di cư dài và quanh co. Người Hà Nhì không chỉ có cuộc sống du mục "di cư qua những vùng nước và cỏ" trước khi họ định cư trên sông Dadu, mà sau khi định cư bằng nghề nông, họ buộc phải rời khỏi các khu định cư nông nghiệp cổ đại do chiến tranh và các lý do khác và di cư trở lại cho đến khi họ tiến vào dãy núi Ailao cận nhiệt đới ở Vân Nam. Xã hội của dân tộc Hà Nhì đã phát triển trong quá trình di cư dài và quanh co này. Mặc dù các tài liệu lịch sử của Trung Quốc không đủ và các tuyến đường di cư cụ thể của người Hà Nhì không được ghi lại rõ ràng, chúng ta vẫn có thể học hỏi từ nghiên cứu về nguồn gốc của bộ tộc Hà Nhì từ thế hệ các nhà sử học và dân tộc học cũ, một số lượng lớn các cuộc điều tra thực địa và người Hà Nhì. Quá trình di cư lịch sử này và sự thật lịch sử của dân tộc Hà Nhì được xác nhận trong nghiên cứu một số lượng lớn các dữ liệu truyền miệng được lưu giữ trong xã hội dân tộc Hà Nhì. Vào những năm 1980, trong xã hội Hà Nhì ở núi Ailao thuộc vùng cận nhiệt đới của Vân Nam, một sử thi về người Hà Nhì di cư là "Hani A Pe cong Po Po -哈尼阿培聪坡坡" (Ape: Tổ tiên, Cong Po Po: Di chuyển từ nơi này đến nơi khác) đã được khai quật ở vùng cận nhiệt đới núi Ailao Vân Nam nơi cộng đồng người Hà Nhì sinh sống. Việc khai quật và phân loại sử thi này đã bổ sung rất nhiều cho sự thiếu sót của các ghi chép lịch sử Trung Quốc về sự di cư và phát triển xã hội của người Hà Nhì.


Địa mạo Đan Hà (Danxia Landform)
Địa mạo Đan hà
ảnh: internet
Do dân tộc Hà Nhì không có chữ viết riêng nên toàn bộ văn hóa của người Hà Nhì được truyền từ đời này sang đời khác thông qua hình thức truyền miệng trong một thời gian dài. Do đó, lịch sử truyền miệng của người Hà Nhì có độ tin cậy và giá trị dữ liệu lịch sử cao. “Hani A Pe cong Popo” là một trong những sử thi tiêu biểu, đầy đủ và có hệ thống với hơn 5.600 dòng của người Hà Nhì được lưu truyền trong cộng đồng người Hà Nhì trên dãy núi Ailao, miêu tả chi tiết những khó khăn và cơ cực của tổ tiên người Hà Nhì đã di cư từ phía bắc vào nam trong những năm lịch sử dài. Toàn bộ bài thơ sử thi được chia thành 7 chương, mỗi chương mô tả một nơi mà cộng đồng người Hà Nhì đã sống và lý do họ chuyển đi. Nơi đầu tiên ghi lại vùng đất du mục của người Hà Nhì sớm nhất là (1) "Huni Huna”  – lhu ní lhu na (đá đỏ và đen xếp so le), đây có thể là Địa mạo Đan Hà (Danxia Landform) – địa điểm du lịch nổi tiếng ở Trung Quốc với những lớp đá đỏ đen nhiều mầu xếp chồng lên, thuộc Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ nằm ở cao nguyên Hoàng Thổ tây Bắc Trung Quốc. Tổ tiên của bộ tộc Hà Nhì sinh ra ở "Huni Huna" đã học cách giữ lửa, hái và săn bắn, nhưng theo thời gian, số lượng người săn bắn động vật hoang dã, ngày một tăng, người ta từng bỏ chạy khi thấy thú rừng, nay thú rừng đã chạy về phương xa, tổ tiên không tìm được thịt ... Cá ở hai con sông lớn ngày càng ngày càng ít đi, và Huni huna không phù hợp để định cư lâu dài của người Hà Nhì nữa họ đã di chuyển về phía nam đến (2) "Hồ Shisuhu"  (Hồ Shisuhu có thể là hồ Nhĩ hải ở tỉnh Vân Nam ngày nay) với nước và cỏ dồi dào và tại đây người Hà Nhì bắt đầu biết thuần dưỡng gia súc, gia cầm. Sau đó, do một thảm họa thiên nhiên, khu rừng bị cháy, nắng gió khắc nghiệt hồ lớn cạn trơ đáy, cây trồng héo khô không còn tài nguyên sinh sống và họ chuyển đến vùng (3) "Galugaze"  (suy đoán: đọc là “ga lha ga dzư” diễn tả cảm giác ẩm thấp, ớn lạnh, dễ sợ) trong Rừng Longzhucheng, có thể đây là một địa điểm trong rừng rậm âm u dễ sợ nên người Hà Nhì mới đặt tên như vậy.


Hành trình di cư người Hà Nhì
Hành trình di cư của người Hà Nhì
từ Bắc vào Nam
ảnh: internet
Ở trong khu rừng Longzhucheng có thổ dân địa phương là "Azuo" đón tiếp nồng nhiệt cư dân Hà Nhì từ phương xa đến, họ dạy cách bẻ tre đan nón, người Hà Nhì phân phát gà vịt, thực phẩm và dạy họ trồng ngũ cốc. Tuy nhiên sống hòa thuận không được bao lâu sau đó, người vợ của Yanzha tộc trưởng "Azuo" đột ngột qua đời khiến Yanzha cho rằng người Hà Nhì đã mang tai họa đến cho họ nên đã trục xuất người Hà Nhì, vì vậy người Hà Nhì đã vội vã di chuyển về phía nam do tổ tiên "Xidou" dẫn đường đến (4) "Jalopchu"  trong thung lũng ấm và ẩm với lượng mưa dồi dào, và có liên hệ chặt chẽ với các nhóm dân tộc như "Azuo" và "Puni", nhưng không lâu sau do bệnh dịch trở nên phổ biến khiến một số lượng lớn người chết buộc họ phải băng qua một con sông lớn về phía nam để đến đồng bằng xinh đẹp (5) "Numa Amei"  được người Hà Nhì ở Việt Nam biết đến với tên là “Nà Ma đầu nguồn” được bao quanh bởi hai con sông. Tại đây, người Hà Nhì bắt đầu sản xuất nông nghiệp và định cư thực sự, đồng thời phát triển nông nghiệp lên một tầm cao mới. Cuộc sống của họ rất hạnh phúc, phát triển thịnh vượng. Kinh tế phát triển, Numa Amei trở nên nổi tiếng, nhiều bộ tộc khác đến giao thương với người Hà Nhì. Trong đó có câu chuyện về con trai của tộc trưởng "Rabo" yêu con gái của Ebony là tộc trưởng người Hà Nhì, sau khi cưới con gái Ebony làm vợ con trai Rabo giao những ngọn núi tốt, sông, ruộng và đất dưới tên của mình, và khuyến khích người vợ nhẹ dạ lừa gạt lấy vương trượng và dải băng trong tay Ebony. Sau khi có được vương trượng quyền lực, "Rabo" tuyên bố rằng "Numa Amei" là lãnh thổ của người Labe, và yêu cầu người Hà Nhì chuyển ra khỏi "Numa Amei" ngay lập tức. Người Hà Nhì đấu tranh nhưng bị đánh bại và phải rời khỏi "Numa Amei" di chuyển về phía nam đến (6) "Se'e Zuo Niang". Để tránh chiến tranh, họ di chuyển về phía đông đến (7) "Guhamicha" và được thổ dân địa phương là "Puni” chấp thuận sống ở đó. Khi dân số Hà Nhì tăng lên và kinh tế phát triển, Puni phát động chiến tranh vì sợ hãi. Quy mô của cuộc chiến này rất lớn, tộc người Hà Nhì gần như bị diệt chủng, họ bị đánh bại và di chuyển về phía nam, sau khi đi qua các địa điểm như Natuo và Shiqi, cuối cùng họ đã vượt sông Hồng Hà về phía nam tiến vào vùng núi Ailao và một số vùng núi phía bắc Việt Nam.

"Hani APe cong Popo" mô tả con đường di cư hoàn chỉnh của người Hà Nhì từ bắc vào nam, và ghi lại tên các khu vực hoạt động chính. Tuy nhiên, do sự thay đổi của các địa danh cổ đại và hiện đại và sự khác biệt lớn giữa ngôn ngữ Hà Nhì cổ đại và hiện đại, rất khó để tìm ra nơi mà loạt địa danh được mô tả ở Guhani ngày nay đề cập đến. Nhưng sử thi về cơ bản là chính xác cho hướng di cư chung của người Hà Nhì, bởi vì cả người Hà Nhì và người Di đều có nguồn gốc từ người Khương cổ đại. Lộ trình di cư xuống phía nam của người Hà Nhì được mô tả trong sử thi này và những địa danh được ghi lại là vô cùng quý giá. Chính sự tồn tại của những địa danh cổ này và những bản sử thi miêu tả cụ thể và sinh động về những khu vực được chỉ ra bởi những địa danh này, đã cung cấp manh mối cơ bản cho việc nghiên cứu, khảo sát và nghiên cứu văn bản, đồng thời cung cấp những thông tin vô cùng quý giá để nghiên cứu thêm về nguồn gốc và sự di cư của tộc người Hà Nhì. Quan trọng hơn, sử thi này không chỉ liên quan đến nguồn gốc dân tộc và sự di cư của người Hà Nhì, mà còn liên quan trực tiếp đến sự phát triển và tiến hóa của các hình thái kinh tế xã hội của dân tộc này trong quá trình di cư.


Nghệ nhân Pờ Lóng Tơ
Nghệ nhân Pờ Lóng Tơ miệt mài ghi chép 
để bổ sung hoàn thiện bộ sử thi
ảnh: qdnd.vn
Tiếp nối quá trình lịch sử di cư của người Hà Nhì được ghi nhận trong sử thi "Hani A Pe cong Popo", người Hà Nhì ở Việt Nam còn lưu truyền một bộ sử thi gọi là “Há Pà P’hùy ca Na ca” do nghệ nhân Pờ Lóng Tơ ở bản Mù Cả, xã Mù Cả, huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu sưu tầm và biên soạn ghi lại cuộc hành trình di cư của người Hà Nhì từ vùng đất cổ Na Tro Tro Ứ nằm bên dòng sông Ha Sa (Hồng Hà), có cánh đồng lớn bên sông được dẫn nước bởi mười hai con mương, có bản lớn Hà Nhì bảy nghìn hộ ở giữa thật giàu có, được bảo vệ bởi hàng rào đan dây thép, được ngăn cách với người Hán bởi dòng sông có con rồng cai quản, bởi giao lộ mười hai ngả đường lớn với bảy mươi lối rẽ đường cong do con voi chúa trấn giữ. 

Nà Ma đầu nguồn
Nơi Hà Nhì sinh sống là Nà Ma đầu nguồn
Nơi bản Hà Nhì ở là Sùy P’hùy À Cò
Nơi bàn luận quyết định là Lé Lu À Khó
Nơi học hỏi lý lẽ là Sùy P’hùy À Cò
Ha Sa rộng to nước tưới bằng mười hai nhánh mương
Ở giữa bản Hà Nhì bảy nghìn hộ
Na Tro Tro Ứ bình yên đó
Là đất của tổ tiên người Hà Nhì ở đó.
Ở giữa đông vui bảy nghìn hộ
Được bao bọc bởi hàng rào thép đan
Hàng rào thép bao kín xung quanh bản
Mười hai con mương dẫn nước vào đồng
Chỗ cuối bản có một bụi tre
Dành làm nơi hành quyết người phạm tội
Gốc cây bưởi là chỗ để thịt dê
Gốc cây sổ để thịt trâu bò đấy
Thịt trộm mèo ở góc khuất trong nhà
Phiến đá ngoài hiên dành làm nơi thịt lợn
Dù một ngày chẳng thịt được mười con
Nhưng mười ngày cũng được một con đấy.
Có hàng rào đan bằng dây thép
Bao bọc bảo vệ khắp xung quanh
Bản ở giữa cũng bao hàng rào thép
Bảy mươi đôi cọc cắm đều nhau
Chúa tể rừng xanh con voi to đuôi ngắn
Tổ tiên ta thuần phục được nó về
Để giữ ranh giới Hà Nhì – Hán
Trấn thủ dòng Ha Sa nước lớn
Là con rồng lặn dưới đáy sông sâu”

(Trích đoạn sử thi “Há Pà P’hùy ca Na ca”)

Sử thi còn kể về dịch bệnh hủi (hay bệnh Phong) đã khiến cho một cô gái lâm vào hoàn cảnh bi thương – bị thả bè trôi sông. Nhưng rồi cô gái được bà cô cứu, lại vô tình được con rồng dưới đáy sông Ha Sa làm cho khỏi bệnh và được trở về bản. Nhưng cô không về một mình mà còn đem theo một chàng trai người Hán do con rồng đưa đến. Đó cũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến tranh chấp và xung đột.

Đã từng chịu khổ không ai biết
Mười lần chịu rét chẳng ai hay
Chịu mười trận nóng như thiêu đốt
Đã từng nhịn đói suốt mười ngày
...
Ống xương con suýt làm cầu qua suối
Thịt của con suýt làm phân bón rồi
Xương sườn con suýt bị phơi ngoài bãi
Bồng bềnh trôi theo nước dòng sông
...
Bà cô chạy tìm khắp bãi sông
Mới thấy một hang đá để giấu
Cứ ban ngày thì nguỵ trang che kín
Chẳng bén mảng đến lấy một lần
Nhưng đêm đến khi mọi người đã ngủ
Lại xách cơm mang đến để cho ăn
Chỉ sợ cha mẹ phát hiện ra
Thì mọi chuyện sẽ không yên ổn được

(Trích đoạn sử thi “Há Pà P’hùy ca Na ca”)

Sử thi kể về cuộc tranh chấp âm thầm nhưng quyết liệt giữa một bên là lực lượng bảo vệ lý lẽ và những tập tục truyền thống của Hà Nhì mà đại diện là anh con trai trưởng trong nhà và một bên là lực lượng người Hán với đại diện là tên con rể và cô vợ người Hà Nhì nhẹ dạ. Chúng dần chiếm hết nhà cửa, đất đai, của cải, hãm hại con voi chúa, đánh tráo cái ống thần của người Hà Nhì. Sau đó, kiếm cớ để tiến đánh, thôn tính đất đai của người Hà Nhì.

Nếu một ngày trâu ngựa bước chân sang
Sẽ đánh cho chết ngay lập tức
Cho phân mốc xương mục ngay tức khắc
Đánh cho chân ngựa chổng lên trời
Đánh cho ruột ngựa phơi ra đất
...
Rõ người Hán lắm mưu sâu kế hiểm
Như rái cá lặn dưới đáy vũng sâu
Đấu trí thì Hà Nhì thua Hán
Cật nứa sắc nhưng vẫn cùn hơn dao
Sức Hà Nhì hơn nhưng mưu Hà Nhì kém
Chân vịt to cũng chẳng bằng diều hâu
....
Đạn người Hán rơi dầy tựa sao sa
Máu người chết chảy thành dòng đỏ thẫm

(Trích đoạn sử thi “Há Pà P’hùy ca Na ca”)

Sử thi kể về cuộc di cư bi thảm, thê lương của người Hà Nhì. Trong quá trình di cư, người Hà Nhì dần bị ly tán, phần thì do bị cộng đồng người khác bắt làm nô lệ, phần thì rơi rớt trên những địa điểm dọc theo tuyến đường di cư. Số còn lại đến sinh sống ở một địa điểm khác và không còn liên hệ gì với các nhóm đã bị ly tán dọc đường.

Cánh tay thì dắt theo con lớn
Còn con nhỏ lót lá địu sau lưng
Như con ruồi bậu vào đít con trâu
Như loài muỗi, dĩn đuổi sau con cừu mẹ

(Trích đoạn sử thi “Há Pà P’hùy ca Na ca”)

Do chủ quan, quân Hà Nhì không chống đỡ nổi, thua và mất đất, khiến họ phải di cư về phương Nam. Một trong những điểm đến đó là Việt Nam.
Trong cuộc di cư này, sử thi "P'huỳ ca Na ca" nói về nơi đến cuối cùng của người Hà Nhì là đầu nguồn Khó Ma, vùng đất hiện nay thuộc địa phận xã Pa Ủ, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Địa danh Khó Ma được miêu tả trong sử thi "P'huỳ ca Na ca" là “nơi có nhiều sản vật”, và rằng “uống rượu ngọt không cần phải trộn men, hạt cơm ăn cũng chẳng dùng chày giã”. Đó chính là các loại cây lõi có bột (báng, móc, cọ). Hiện nay, cộng đồng người La Hủ ở các xã Pa Ủ và Pa Vệ Sủ vẫn khai thác các loại cây này để ăn và nấu rượu. Người La Hủ ở đây còn nói rằng khi người La Hủ đến đây thì đã thấy có những đám ruộng bậc thang của người Hà Nhì. Chắc hẳn là sau khi tạm thời ăn bột lõi cây rừng sống qua ngày, người Hà Nhì đã tích cực khai khẩn ruộng bậc thang. Sau đó, một phần do số lượng dân cư tăng lên, mặt khác do tìm được những vùng đất mới tốt hơn nên người Hà Nhì đã rời đi.

So sánh với sử liệu trên sử thi "Hani A Pe cong Popo" có thể thấy Na Tro Tro Ứ là một tên biệt danh hay tên bản nào đó ở vùng đất “Numa Amei” là một vùng đất đồng bằng trùng phú rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và tổ chức dân cư. Trong sử thi "Hani Ape Cong Po Po" không thấy nhắc đến tên Na Tro Tro Ứ, kết hợp với một số truyện cổ tích, truyền thuyết vẫn còn lưu truyền khi đó tộc người Hà Nhì được phân bố thành nhiều điểm dân cư (bản trên, bản giữa, bản dưới) vì vậy rất có thể nhóm người Hà Nhì đã ly tán do chiến tranh về phía Nam xuống đầu nguồn Khó Ma trước khi xẩy ra chiến tranh đã ở trong một bản đông vui, sung túc có tên là Na Tro Tro Ứ ở vùng đồng bằng Numa Amei, trong khi nhóm người Hà Nhì ở các bản khác đã ly tán và trốn khỏi Numa Amei tới những địa điểm nằm trong địa phận Trung Quốc quanh dãy núi Ailao vì thế sử thi Hani Ape Cong Po Po được khai thác ở cư dân khu vực núi Ailao không ai còn nhớ và nhắc đến tên Na Tro Tro Ứ như sử thi Há pà P'hùy ca Na ca đã nhắc đến, giữa hai sử thi có một mai mối chung và gần như là điểm nối giữa hai sử thi này đó là khu vực cư trú ở Numa Amei (trong Sử thi Há pà P'hùy ca na ca có nhắc đến "Nà Ma đầu nguồn" theo tiếng Hà Nhì là "Nà Ma a (lo) mé" tức là Numa Amei. Nếu sử thi Hani Ape Cong Po Po nói về hành trình di cư một cách chân thực trải dài từ khi người Hà Nhì tự nhận thức được là một dân tộc riêng đi qua nhiều địa danh và xuống đến định cư ở vùng Numa Amei và tiếp tục nói về hành trình lưu lạc đến những vùng khác nhau ở hai bên bờ sông Hồng Hà và dãy núi Ailao ở Vân Nam, Trung Quốc thì sử thi Há pà P'hùy ca Na ca lại tiếp nối câu chuyện với nhiều chi tiết hình tượng hóa, hư cấu pha lẫn yếu tố thần thoại kể lại hành trình di cư lưu lạc của nhóm người Hà Nhì tách ra từ khu vực cư trú tập trung ở Numa Amei về phía Nam xuống đầu nguồn Khó Ma ở Lai Châu,Việt Nam. Như vậy, sử thi Hani Ape Cong Po Po phản ánh được lịch sử người Hà Nhì từ khi xuất hiện đến khi có cuộc sống cư trú ổn định trên dãy núi Ailao và hai bên bờ sông Hồng Hà, còn sử Thi Há pà P'hùy ca Na ca tiếp nối sử thi nói trên và chủ yếu tập trung ghi lại những sự kiện xoay quanh nhóm người Hà Nhì từ khi tách ra từ Numa Amei về phía Nam xuống đầu nguồn Khó Ma ở Việt Nam.

Qua hai bộ sử thi kể trên có thể thấy dân tộc Hà Nhì từ khi xuất hiện đã trải qua bao nhiêu thăng trầm, thử thách của lịch sử dân tộc, qua chiến tranh họa nạn, trốn chui trốn lủi xuất chiều dài lịch sử để có được cuộc sống như ngày hôm nay.

ps: bài viết có liên quan đến nhiều cứ liệu lịch sử được lược dịch từ một số tài liệu của các nhà khoa học Trung Quốc do vậy một số thông tin chỉ mang tính chất suy đoán, giả thiết của tác giả có thể chưa chính xác, nhưng đây là những thông tin tham khảo bổ ích để giải thích cho sự xuất hiện của dân tộc Hà Nhì ở Việt Nam, mong bạn đọc cũng nghiên cứu tổng hợp thông tin để đóng góp vào kho tri thức của dân tộc Hà Nhì và làm rõ cội nguồn của dân tộc Hà Nhì.

Lược dịch và tổng hợp: Cao A Gó - Tác giả blog.
---------------------
Xem bài Sơ lược lịch sử người Hà Nhì ở Việt Nam, tại đây

Bạn đọc có thể tìm hiểu thêm với từ khóa:
- 哈尼族 (dân tộc Hà Nhì)
- 哈尼阿培聪坡坡 (tên sử thi Hani Ape Cong Po Po)
- Sử thi Há pà P'hùy ca Na ca
- Nghệ nhân Pờ Lóng Tơ

Tài liệu tham khảo:

1. Trích và lược dịch từ bài viết: 哈尼族- 中央政府门户网站 www.gov.cn   2006年04月14日 10时17分   来源:国家民委网站 – Dân tộc Hà Nhì Cổng thông tin điện tử Chính phủ Trung ương www.gov.cn 14/04/2006 10:17 Nguồn: Trang web Ủy ban Nội chính Trung ương Trung Quốc.

2. Thư viện bách khoa mở Wikipedia tiếng Việt: https://vi.wikipedia.org/wiki/Nam_Chiếu

3. Tác giả Bùi Quốc Khánh, bài viết: SỬ THI – HÁ PÀ “PHUỲ CA NA CA” CỦA NGƯỜI HÀ NHÌ Ở MƯỜNG TÈ trên trang TaDRI (Viện nghiên cứu truyền thống và phát triển): http://tadri.org/


Nếu bạn đọc thực sự quan tâm đến nội dung bài viết và mong muốn đóng góp những ý kiến để bổ sung hoàn thiện bài viết thì xin hãy để lại những lời nhận xét ở bên dưới. Những đóng góp của quý vị sẽ là những tri thức quý báu giúp lan tỏa sự hiểu biết đến với mọi người.